Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện (Bàn Tân Định)
Tranh luận trên các
diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không thể thiếu được trong
các thể chế dân chủ và văn minh. Ở nhiều nước Tây phương, lưu lượng của những
tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một dấu hiệu của một xã hội lành
mạnh. Nhưng thế nào là tranh luận nghiêm túc? Nói một cách ngắn gọn, cũng như
trong một cuộc đấu võ, một tranh luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui
tắc hẳn hoi, mà trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm
luật chơi. Những qui tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng
cách vận dụng những lí lẽ logic, với thái độ thành thật và cởi mở, chứ không
phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp
hòi. Để đạt những yêu cầu này, người tranh luận nghiêm túc trước khi phát biểu
hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét tất cả các
trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải thích khác
nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải chú tâm vào
việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, sẵn sàng chấp nhận những quan điểm
không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của
chính mình. Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận,
luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không nhằm vào cá nhân và bản thân của
người tham gia tranh luận.
Đó là những đòi hỏi
khó khăn cho một cuộc tranh luận nghiêm túc có ý nghĩa, và không phải ai cũng
có khả năng đạt được những yêu cầu này. Thành ra, không mấy ai ngạc nhiên khi
thấy có quá nhiều trường hợp chất lượng của cuộc tranh luận rất thấp. Chỉ cần
xem qua những lần tranh luận trên các đài truyền hình (ở Úc chẳng hạn), người
ta có thể thấy đó không phải là tranh luận, mà là những cuộc đụng độ giũa các
cá nhân tham gia tranh luận (nhất là các quan chức) thay vì đương đầu với lí
luận của người tranh luận. Ngoài ra, đối với một số lớn chính trị gia, nghệ sĩ,
và khoa học gia, được xuất hiện trên ti-vi để bình luận về một câu chuyện nào
đó là một cuộc dàn xếp, một lần đóng kịch không hơn không kém. Nó là một kịch
bản ngớ ngẩn đã được dàn xếp sẵn. Ngớ ngẩn là vì người xuất hiện chẳng nói được
gì cho đầy đủ, mà cũng chẳng phân tích một vấn đề gì cho đến nơi đến chốn. Thực
ra, họ xuất hiện để được ghi nhận, để được [nói theo tiếng Anh] là “to be
seen”. Đối với các chính trị gia, nghệ sĩ, và khoa học gia loại này, “to be
seen” là một phương tiện sống còn của họ trong xã hội, là một cách nói “Tôi vẫn
còn đây”. Điều này có nghĩa là càng xuất hiện nhiều trên ti-vi nhiều chừng nào
càng đem lại lợi ích cá nhân cho họ. Thành ra, ti-vi ngày nay đã trở thành một
tấm gương cho những anh chàng bảnh trai Narcissus hiện đại phô bày bộ mặt của
họ, chứ không cống hiến gì nhiều cho một xã hội dân chủ.
Mà cũng chẳng riêng gì
ở Úc, tình trạng nghèo nàn về tranh luận này đã và đang xảy ra ở Âu châu. Trong
mấy tháng gần đây, giới khoa học Âu châu đang lên cơn sốt “Holocaust” (cuộc tàn
sát người Do thái, trước và trong thế chiến thứ II). Bất cứ một nhà khoa học
nào, nghệ sĩ nào dám chất vấn những quan điểm “chính thống” về thực phẩm, về
bệnh AIDS, về cuộc xung đột ở Kosovo, về sự kiện hôm 11/9 ở Mĩ, hay về môi
trường đều bị dán cho một nhãn hiệu là bạn của Nazi. Giáo sư Bjorn Lomborg mới
lên tiếng chất vấn những con số thống kê về môi trường liền bị gắn cho nhãn
hiệu “giống như Nazi”. Những ai dám chất vấn mối liên hệ giữa vi khuẩn HIV và
bệnh AIDS liền bị tố cáo là “muốn cho thế giới này có một Holocaust thứ hai”.
Thật vậy, ở Âu châu ngày nay xuất hiện một xu hướng mà những quan điểm đã được
xem là “chính thống” thì không ai được chất vấn. Cái xu hướng này nó đang ăn
sâu vào xã hội và giới truyền thông đến nổi một nhà trí thức Anh phải than
phiền là nếu không ngăn chận, nó có cơ đem xã hội Âu châu quay trở lại thời
Trung cổ, thời mà không ai dám chất vấn những gì Vatican phán.
Trong cộng đồng người
Việt, vấn đề này còn nghiêm trọng hơn. Rất nhiều trường hợp, những cuộc tranh
luận trong cộng đồng đã trở thành những cuộc chửi lộn, mà trong đó người tham
gia tha hồ vung vít, ném liệng vốn liếng chữ nghĩa qua lại một cách hỗn độn, mà
chẳng cần để ý đến logic hay các nguyên tắc của tranh luận là gì. Hơn nữa, rất
dễ dàng nhận thấy rằng trong các cuộc tranh luận đó người ta nhắm vào
mục tiêu là bản thân, cá nhân của người tranh luận chứ không nhắm vào quan điểm
và lí lẽ của người đó. Một đơn cử, mới đây, những bài viết liên quan đến
biên giới, thay vì bàn luận thẳng vào vấn đề, người ta có khuynh hướng công
kích vào cá nhân người viết. Những danh từ, tính từ hết sức vô văn hóa được
mang ra dùng cho tác giả. Thay vì dùng những chữ như Holocaust, Nazi, người
Việt có những cụm từ đánh vào chỗ nhạy cảm của quần chúng. Trong hầu như những
tranh luận liên quan đến Việt Nam, nhiều người cố tìm hay tạo cho mình một vị
trí đạo đức cao cả bằng cách gắn cho đối phương một trong hai cụm từ trên, một
thủ đoạn có khả năng làm cho một cuộc tranh luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ
đinh tai nhức óc. Tại sao anh dám nói chúng tôi sai? Anh là một tên phản bội
dân tộc. Tức là, thay vì tranh luận thẳng vào vấn đề, người ta tìm cách gắn cho
đối phương một nhãn hiệu, và từ đó làm lu mờ đi quan điểm của họ.
Thực ra, đó là một
hình thức ngụy biện, một lỗi lầm cơ bản nhưng nghiêm trọng trong tranh luận.
Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn trong lí luận và suy
luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong
trường hợp này, là những luật lệ hay qui tắc quản lí tính nhất quán trong việc
sử dụng ngôn ngữ. Từ nhiều thế kỉ qua, giới triết học Tây phương đã bỏ khá
nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle
là một nhà logic học đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy
luận. Trong quá trình làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người
ta quen gọi là những “ngụy biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu
tiên có công liệt kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato)
mới xứng đáng được vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu
tầm những ví dụ về ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều nhà
triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và
Arthur Schopenhauer cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về
ngụy biện.
Thực ra, nhận dạng
ngụy biện không phải là một việc làm khó khăn. Nói chung chỉ với một lương năng
bình dân, người ta có thể phân biệt một phát biểu mang tính ngụy biện với một
phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều dạng thức ngụy biện mà vẻ bề ngoài
hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực chất là phi logic. Những loại ngụy
biện núp dưới hình thức “khoa học” này không dễ nhận dạng nếu người đối thoại
thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lí lẽ. Do đó, một điều quan trọng
trong tranh luận là cần phải phát hiện và nhận dạng những hình thức ngụy biện,
và quan trọng hơn, cần phải hiểu tại sao chúng sai. Có thể phân loại ngụy biện
thành nhiều nhóm khác nhau liên quan đến việc đánh lạc vấn đề, lợi dụng cảm
tính, thay đổi chủ đề, nhầm lẫn trong thuật qui nạp, lí luận nhập nhằng, phi logic,
và sai phạm trù. Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết, người viết bài này
không có tham vọng trình bày tất cả những loại ngụy biện một cách chi tiết (vì
việc này đã được hệ thống hóa trong nhiều sách về logic học), mà chỉ muốn liệt
kê ra những loại ngụy biện thường hay gặp trong báo chí và truyền thông, hầu
giúp bạn đọc có thể nhận dạng ra chân-giả.
Có 9 nhóm của của văn
hóa tranh luận và ngụy biên. Mời các ban xem tiếp vào tuần sau.
Muốn tìm hiểu thêm văn
hóa doanh nghiệp hãy vào: hoconlinecungmocque.com
Related Posts:
VanHoaDoanhNghiep
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét: